Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, để đối phó với các hoạt động của Quân Giải phóng, quân đội Mỹ đã huy động lực lượng quân khuyển với hàng ngàn chó nghiệp vụ.
Theo số
liệu của Tiến sĩ Dr. Howard Hayes, Bác sĩ Thú y
thuộc Viện Sức khỏe Quốc gia Hoa Kỳ đưa ra tháng 3/1994 dựa trên thống
kê mã hiệu, có ít nhất 3.747 chó nghiệp vụ được xác nhận đã được
quân đội Mỹ sử dụng ở Việt Nam. Tuy nhiên nhiều ước tính đưa ra con
số 4.900 đến 5.000 trong giai đoạn chiến tranh từ 1964 đến 1975, do các
hồ sơ về chó nghiệp vụ không được quân đội Mỹ duy trì cho đến trước
năm 1968.
Cùng với đó, khoảng 10.000 huấn luyện viên chó nghiệp vụ cũng đã tham chiến. Chiếm tỉ lệ cao nhất trong số này là các quân nhân thuộc Lục quân (65%), tiếp đó là Không quân (26%), Thủy quân lục chiến (7%) và Hải quân (2%). Với con số này, Việt Nam trở thành cuộc chiến mà Mỹ sử dụng chó nghiệp vụ trên quy mô lớn nhất trong tất cả các cuộc xung đột thời Chiến tranh lạnh.
Ở Việt Nam, lực lượng quân khuyển Mỹ được giao nhiều nhiệm vụ như:
Trinh sát: thông thường trong nhiệm vụ này nhóm 1 chó béc giê Đức và 1 huấn
luyện viên sẽ được phối thuộc cho đơn vị bộ binh khi có yêu cầu. Tổ
quân khuyển sẽ có nhiệm vụ đi đầu đội hình đóng vai trò tai mắt cho
đơn vị, cảnh giới, phát hiện các dấu hiệu có gài bẫy, phục kích,
bắn tỉa, dò tìm nơi cất giấu vũ khí, lương thực của Quân Giải phóng
và cảnh báo cho đơn vị đi sau. Đây là bộ phận thường phải chịu thương
vong nặng nhất trong lực lượng quân khuyển. Phần lớn chó trinh sát và
huấn luyện viên được đào tạo tại căn cứ Lục quân Fort Benning, Georgia (Mỹ) hoặc huấn luyện tại chỗ.
Ảnh 1. Chó trinh sát Mỹ ở Việt Nam năm 1966.
Ảnh 2. Chó nghiệp vụ tuần tra tại Đà Nẵng năm 1969.
Tuần tra mặt nước: chó nghiệp vụ được triển khai theo các tàu, thuyền tuần tra tốc độ thấp trên các tuyến giao thông đường sông của Mỹ nhằm phát hiện hơi thở từ các thiết bị lặn, từ đó ngăn chặn hoạt động của đặc công nước Quân Giải phóng.
Dò mìn/bẫy/đường hầm: tổ
quân khuyển cũng gồm 1 chó béc giê Đức và 1 huấn luyện viên. Đúng như
tên gọi, chó nghiệp vụ có nhiệm vụ dò tìm đường hầm, các dấu vết
của mìn, bẫy và các phương tiện sát thương khác để hỗ trợ các hoạt
động của công binh chiến đấu Lục quân và Thủy quân lục chiến. Ngoài
ra các tổ quân khuyển này còn tham gia hỗ trợ hoạt động lùng sục
càn quét làng mạc và những khu vực nghi ngờ có kho tàng của Quân
Giải phóng.
Ảnh 3. Chó nghiệp vụ thăm dò 1 cửa hầm, năm 1970.
Nhóm tác chiến dò tìm (CTT) là một mô hình riêng được xây dựng để chống lại các hoạt động chiến tranh du kích của Việt Nam. Mỗi nhóm tác chiến này gồm 2 chó nghiệp vụ Labrador (trong đó 1 làm dự bị) và 5 lính gồm huấn luyện viên, lính tìm kiếm theo dấu vết, lính yểm trợ, điện đài viên và tổ trưởng. Dựa trên kinh nghiệm chống du kích của quân đội Anh ở Malaysia, các nhóm CTT có nhiệm vụ chủ động truy lùng Quân Giải phóng.
Từ năm 1964 có 14 nhóm CTT được đào tạo theo giáo trình của Anh. Hoạt động huấn luyện này được tiến hành bí mật tại Trường tác chiến rừng ở Borneo, Malaysia để che giấu sự hỗ trợ về mặt quân sự của Anh và Malaysia cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ. Các chó nghiệp vụ được quân đội Anh cung cấp trong khi công tác giảng dạy do lính SAS Australia và New Zealand – 2 quốc gia có quân tham chiến trực tiếp ở Việt Nam đảm nhiệm.
Bắt đầu
từ năm 1966, quân đội Mỹ tự mở trung tâm huấn luyện riêng của mình ở
căn cứ Lục quân Fort Gordon, Georgia (Mỹ).
So với tổ chức ban đầu của Anh, người Mỹ có sự điều chỉnh. Các nhóm CTT được
gom thành các trung đội trong sư đoàn bộ binh hoặc phân đội trong các
đơn vị nhỏ hơn, số lượng chó nghiệp vụ và luyện viên trong
mỗi phân đội được giảm bớt, nhưng bổ sung thêm
các trinh sát là hồi chánh viên của Quân Giải phóng được đào tạo
theo chương trình Kit Carson Scout.
Ảnh 4. Một toán tác chiến dò tìm (CTT) Mỹ ở Việt Nam năm 1970.
Mặc dù
vậy, các nhóm CTT vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Theo số liệu thống kê,
một đơn vị như vậy – Trung đội bộ binh số 63 trong thời gian từ tháng
9/1969 đến tháng 1/1971 chỉ bắt giữ được 80 người tình nghi hoạt động
cho Cách mạng. Trong nhiều trường hợp, các đơn vị này mất hàng tháng
trời mà không phát hiện được dấu vết của bộ đội Giải phóng hay du
kích.
Quân đội Mỹ tổng kết có khoảng 350 chó nghiệp vụ và 263 huấn luyện viên đã thiệt mạng ở Việt Nam, nhiều trường hợp khác bị thương. Hoạt động của chó nghiệp vụ được cho là đã cứu mạng khoảng 10.000 lính Mỹ.
Tuy nhiên
số phận của lực lượng chó nghiệp vụ Mỹ ở Việt Nam lại khá hẩm
hiu. Sau khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết, quân
đội Mỹ rút khỏi Việt Nam thì các đơn vị quân khuyển bị giải thể. Các chó nghiệp vụ được quân đội Mỹ phân loại thành trang bị bỏ
đi. Trong số hàng ngàn chó nghiệp vụ chỉ có 204 con
được mang theo để triển khai ở các căn cứ khác, một số ít chuyển giao cho QLVNCH tiếp tục sử dụng, số còn lại đơn giản là bị giết hoặc bị vứt bỏ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét